Dấu hiệu bị thủy: các nốt phát ban phát triển thành mụn mủ dạng phỏng nước, ngứa nhiều; trước khi điều trị cần chẩn đoán hoặc xét nghiệm thủy đậu để xác định chính xác bệnh.
Thủy đậu xảy ra chủ yếu ở trẻ em, biểu hiện bằng sốt và phát ban dạng nốt phỏng, thường diễn biến lành tính. Ở người có suy giảm miễn dịch, phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, thủy đậu có thể tiến triển nặng dẫn đến các biến chứng nội tạng như viêm phổi, viêm cơ tim và có thể dẫn tới tử vong.
Dấu hiệu bị thủy đậu: Phương pháp chẩn đoán và cách điều trị
Dấu hiệu bị thủy đậu
Ở trẻ em không bị suy giảm miễn dịch, thủy đậu hiếm khi trầm trọng. Ở người lớn và trẻ bị suy giảm miễn dịch, nhiễm trùng có thể nghiêm trọng.
Nhức đầu nhẹ, sốt nhẹ và tình trạng khó chịu có thể xảy ra từ 10 đến 21 ngày sau khi phơi nhiễm, khoảng 24 đến 36 giờ trước khi các thương tổn xuất hiện. Tiến trình này có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân > 10 tuổi và thường nặng hơn ở người lớn.
Phát ban ban đầu bệnh thủy đậu
Phát ban ban đầu, sự phát ban dạng chấm trên da, có thể được đi kèm với lan tràn. Trong vòng vài giờ, tổn thương tiến triển thành sẹo và sau đó có hình thái điển hình, dạng phỏng nước thường ngứa nhiều, trên nền đỏ. Các tổn thương trở nên mụn mủ và sau đó đóng vẩy.
Phát ban ban đầu bệnh thủy đậu
Các tổn thương ban đầu phát triển trên mặt và thân mình và xuất hiện liên tiếp từng đợt; một số ban dạng chấm xuất hiện giống như tổn thương dạng đám giai đoạn sớm bắt đầu có vỏ Sự phát ban có thể được khái quát hóa (trong trường hợp nghiêm trọng) hoặc hạn chế hơn nhưng hầu như luôn luôn liên quan đến phần trên của thân mình.
Các tổn thương loét có thể phát triển trên bề mặt niêm mạc, bao gồm các khoang miệng họng và miệng, đường hô hấp trên, và niêm mạc trực tràng và âm đạo.
Trong miệng, các ban phỏng nước thường vỡ ngay lập tức, không thể phân biệt được với những trường hợp viêm lợi quanh chân răng, và thường gây đau trong khi nuốt.
Các tổn thương da đầu có thể dẫn đến sự nhậy cảm, xuất hiện các hạch bạch huyết dưới chẩm và hạch cổ.
Các thương tổn mới thường không còn xuất hiện vào ngày thứ 5, và phần lớn hình thành lớp vỏ vào ngày thứ 6; hầu hết các lớp vỏ biến mất < 20 ngày sau khi bắt đầu.
Xem thêm: Triệu chứng thủy đậu qua các giai đoạn
Phương pháp chẩn đoán bệnh thủy đậu
Chẩn đoán bệnh thủy đậu qua đánh giá lâm sàng
Bệnh thủy đậu được nghi ngờ ở những bệnh nhân có phát ban đặc trưng, thường là cơ sở để chẩn đoán. Phát ban có thể bị lẫn lộn với các nhiễm trùng da do virut khác.
Bệnh thủy đậu cần được phân biệt với một số bệnh cũng có phỏng nước tương tự như:
- Bệnh tay chân miệng
Giống thủy đậu, bệnh tay chân miệng cũng gây ra phỏng nước ở niêm mạc nhưng phỏng nhỏ hơn và chủ yếu phân bố ở tay, chân và mông.
- Herpes simplex
Bệnh lý này cũng có phỏng nước nhưng lại thường tập trung ở vùng da chuyển tiếp niêm mạc quanh các hốc tự nhiên chứ không phân bố toàn thân như thủy đậu.
Một số đánh giá lâm sàng khác về bệnh thủy đậu như:
- Công thức máu: bạch cầu bình thường hoặc giảm.
- Sinh hóa máu: tăng men gan.
Nếu chẩn đoán lâm sàng bệnh thủy đậu là nghi ngờ thì cần xét nghiệm thủy đậu để đánh giá chính xác bệnh.
Chẩn đoán thủy đậu qua xét nghiệm thủy đậu
Các phương pháp xét nghiệm thủy đậu phổ biến hiện nay là:
- Xét nghiệm dịch nốt phỏng PCR xác định ADN của Herpes zoster, Lam Tzanck tìm tế bào khổng lồ đa nhân,...
- Xét nghiệm huyết thanh học tìm kháng thể IgG và IgM trong máu bằng phương pháp miễn dịch hóa phát quang tự động trên máy Liaison hoặc ELISA.
- Xét nghiệm PCR phát hiện sự có mặt của virus thủy đậu trong máu.
- Phát hiện tăng hiệu giá kháng thể trong huyết thanh. Thông thường ở bệnh nhân mới nhiễm virus thủy đậu, sau 2 tuần sẽ có hiệu kháng thể (IgG/IgM) tăng gấp 2 - 4 lần trước đó.
Tùy vào cơ sở xét nghiệm cũng như trường hợp bệnh nhân mà sẽ thực hiện xét nghiệm thủy đậu với các phương pháp khác nhau.
Cách điều trị bệnh thủy đậu
Điều trị bệnh thủy đậu bằng thuốc cần phải có sự chỉ định của bác sĩ. Các loại thuốc bôi chống bội nhiễm của bệnh thủy đậu có thể kể đến như: mỡ kháng sinh (trong đó có mỡ Bactroban, Fucidin), thuốc bôi chống virus acyclovir. Ngoài thuốc bôi ngoài da, còn có thuốc uống Acyclovir giúp làm giảm mức độ nặng của bệnh và các ca nhiễm thứ phát. Để điều trị triệu chứng ngứa, các bác sĩ còn có thể cho người bệnh uống kháng Histamin tổng hợp, kháng sinh chống bội nhiễm vi khuẩn Erythromycin, Cephalexin… Điều trị hạ nhiệt bằng paracetamol; tránh dùng aspirin vì nó có thể gây ra hội chứng Reye.
Trong các trường hợp nặng, người bệnh cần chú ý cân bằng nước và chất điện giải, tuyệt đối tránh sử dụng Corticoid. Ngoài ra, để điều trị các nốt thủy đậu lan tràn ở các ca nặng, viêm phổi thủy đậu, viêm não thủy đậu và thủy đậu ở người thiếu hụt miễn dịch, các bác sĩ có thể dùng Acyclovir đường tĩnh mạch hoặc Vidarabine.
Bài liên quan:
0 Nhận xét